Giá thành từ các nguồn khác nhau nhưng theo chuyên gia Ngân hàng Thế giới, mức này vẫn thấp hơn các nước cùng trình độ phát triển trong khu vực.
Quan điểm trên được ông Franz Gerner – Trưởng nhóm Năng lượng, Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam (WB) chia sẻ xoay quanh việc tăng giá điện thêm 6,08% lên mức bán lẻ bình quân 1.720,65 đồng một kWh từ 1/12.
– Ngày 1/12, giá điện bán lẻ đã chính thức tăng thêm 6,08% lên 1.720,65 đồng một kWh. Ông nhìn nhận như thế nào về quyết định này của cơ quan quản lý?
– Trước khi tăng giá đầu tháng 12, giá điện bán lẻ tại Việt Nam đã bị “đóng băng” từ năm 2015, ở mức 1.622,01 đồng một kWh (tương đương 0,076 USD một kWh), trong khi tổng giá thành năm 2017 là 0,113 USD một kWh. Chưa kể, hiện ngành điện phải đối diện với thực tế không thể nâng giá điện tiêu dùng theo mức tăng chi phí. Phải bán giá thấp đã làm cho tình hình tài chính của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không khả quan. Tôi cho rằng, đợt tăng giá vừa rồi giúp giá điện về gần hơn với mức phản ánh đầy đủ chi phí sản xuất, đồng thời bảo vệ người tiêu dùng thu nhập thấp thông qua mạng lưới an sinh sẵn có.
Bên cạnh đó, giá điện hiện nay thấp hơn mức giá mà EVN phải bỏ ra để mua điện từ các nguồn trong tương lai, kể cả năng lượng tái tạo và nhiệt điện. Nhu cầu đầu tư sản xuất điện tăng nhanh nhằm đáp ứng tốc độ tăng cầu về điện. Tuy mức giá thành từ các nguồn khác nhau nhưng giá điện sinh hoạt, kinh doanh và điện công nghiệp bán ra tại Việt Nam hiện tương đối thấp so với các nước cùng trình độ phát triển (GDP/người) trong khu vực và trên thế giới. Ví dụ, giá điện tại Campuchia, Lào, Philippines và Indonesia lần lượt là 19 cent một kwh, 9 cent một kwh, 14,6 cent một kwh, và 7,3 cent một kwh.
Ông Franz Gerner – Trưởng nhóm Năng lượng WB tại Việt Nam cho rằng, ngành điện không thể nâng giá điện tiêu dùng theo mức tăng chi phí. Ảnh: H.T |
– Tính toán của nhà chức trách cho thấy, đợt tăng giá này sẽ làm CPI tăng 0,08% trong năm 2017, 0,1% năm 2018 và giảm mức tăng GDP 0,166%. Ông có ý kiến gì về điều này?
– Kinh nghiệm quốc tế cho thấy tác động của tăng giá điện lên tỷ lệ lạm phát là khá thấp, nhất là khi áp dụng tăng giá từ từ. Đợt tăng giá này có thể làm cho giá cả tăng mạnh hơn xu thế lạm phát thông thường, nhưng tác động chỉ mang tính nhất thời và không đáng kể.
Nguyên nhân là chi tiền điện chỉ chiếm 2,5% giỏ hàng tiêu dùng mặc dù tác động đó có thể còn lan truyền đôi chút sang các loại hàng hóa và dịch vụ khác có tiêu thụ điện trong sản xuất. Hiện nay lạm phát khá thấp. Đây chính là điều kiện thuận lợi để tăng giá điện.
Về tăng trưởng GDP thì có hai hiệu ứng trái ngược. Một mặt giá điện tăng sẽ giúp các công ty sản xuất điện cải thiện tình hình tài chính. Nhờ vậy Chính phủ cũng có thể cắt giảm hỗ trợ cho các doanh nghiệp này, và vẫn có thể đầu tư vào nâng cao năng lực sản xuất, truyền tải và phân phối điện. Điều đó tất nhiên sẽ góp phần thúc đẩy tăng GDP. Mặt khác, giá điện tăng sẽ làm đẩy chi phí sản xuất, nhất là những ngành tiêu thụ nhiều điện năng, ví dụ ngành công nghiệp chế tạo và một bộ phận nông nghiệp.
Các ngành này sẽ chịu một số tác động ngắn hạn, nhưng về lâu dài tăng giá điện sẽ buộc các khách hàng điều chỉnh việc sử dụng điện của mình. Họ sẽ chuyển sang sử dụng điện lệch giờ cao điểm để được hưởng giá thấp hơn hay áp dụng các biện pháp tăng cường tiết kiệm điện.
Như vậy sẽ góp phần tăng năng suất lao động. Kinh nghiệm thế giới là quy định mức giá phản ánh đúng chi phí và hợp lý chính là chính sách kinh tế đúng đắn. Qua đó sẽ đảm bảo rằng cả nhà sản xuất và người tiêu dùng đều hướng tới tiết kiệm năng lượng và đầu tư vào các công nghệ tiết kiệm năng lượng hơn.
– Đồng loạt các mặt hàng thiết yếu đầu vào sản xuất như điện, khí , xăng… đều tăng giá đang gây sức ép khá lớn lên doanh nghiệp, người tiêu dùng, nhất là vào thời điểm cuối năm. Quan điểm của ông thế nào?
– Chính phủ tăng giá điện là thể hiện điều kiện trên thị trường và làm như vậy sẽ có tác dụng tăng hiệu quả phân bổ nguồn lực. Đồng thời, khi trả mức giá đó người tiêu dùng cũng sẽ tìm cách tối ưu hóa cung cách tiêu dùng của mình và sẽ hưởng lợi từ đó.
Nhiều nền kinh tế mới nổi đã trải qua các thời kỳ tương tự trong quá trình phát triển kinh tế (khi tỷ lệ GDP trên đầu người tăng) và họ cũng có các mạng lưới an sinh nhằm bảo vệ các nhóm thu nhập thấp trước các cú sốc tăng giá. Tôi được biết hiện Chính phủ vẫn duy trì chính sách an sinh xã hội với người thu nhập thấp, người nghèo sử dụng điện với mức hỗ trợ 30 kWh một tháng.
– Nhưng giá điện tăng thêm 6,08% chưa cộng gần 10.000 tỷ đồng lỗ chênh lệch tỷ giá của ngành điện. Ông nhìn nhận vấn đề này thế nào?
– Chiến lược chung về giá điện của Bộ Công Thương là nhằm đảm bảo cho EVN có đủ lãi để bù đắp đủ chi phí hoạt động và hoàn trả vốn vay. Do dựa chủ yếu vào thủy điện nên nếu năm nào có lượng mưa trung bình thì EVN cũng có lãi. Nhưng vấn đề là nhu cầu vốn đầu tư của EVN và ngành điện rất lớn, vào khoảng 4-7 tỷ USD mỗi năm từ nay cho tới 2030. Con số đó hiện nay chưa thể hiện trong giá điện và cái khó của EVN và ngành điện là làm sao thu hút được vốn thương mại và sự tham gia của khu vực tư nhân vào đầu tư.
Muốn thỏa mãn nhu cầu đó thì giá điện phải lên tới mức 0,143 USD một kwh (khoảng hơn 3.200 đồng một kWh) vào năm 2021. Mỗi nước đều có tiềm năng về năng lượng và giá thành sản xuất điện khác nhau. Trường hợp Việt Nam, lượng điện có thể sản xuất từ các nguồn rẻ tiền như thủy điện, than, khí đã bị khai thác tới hạn; tất cả sản lượng điện sản xuất mới từ than nhập khẩu và trữ lượng khí trong nước đều sẽ có giá thành cao hơn.
– Ông vừa nhắc tới cần vốn đầu tư vào ngành điện. Vậy với giá điện vừa tăng đã đủ hấp dẫn các nhà đầu tư?
– Nhu cầu về điện năng tại Việt Nam tăng khoảng 8% mỗi năm từ nay cho tới 2020. Với số liệu này thì ước tính tổng vốn đầu tư cần thiết vào lĩnh vực điện gần 13 tỷ USD trong 5 năm tới, trong đó 11 tỷ USD đầu tư vào sản xuất điện và 1,8 tỷ USD vào truyền tải, phân phối điện. Theo quy định thì hiện Chính phủ không tiếp tục bảo lãnh cho EVN đi vay vốn từ các ngân hàng thương mại, tổ chức tài chính quốc tế, đồng nghĩa doanh nghiệp này sẽ phải “tự lực cánh sinh”, xoay dòng vốn cho các dự án của mình.
Do vậy muốn huy động các nguồn mới đầu tư vào hạ tầng điện thì chính sách phải lưu ý 3 trụ cột, trước tiên là cần có một chương trình được xây dựng kỹ lưỡng về phát triển các nhà máy phát điện độc lập theo hình thức PPP, để qua đó xây dựng lòng tin đối với nhà đầu tư tư nhân. Ngoài ra, chính sách cũng cần xây dựng để chuẩn bị cho EVN và các công ty thành viên đạt tiêu chuẩn vay vốn doanh nghiệp. Cuối cùng, thực hiện một chương trình nâng cao khả năng cấp vốn bằng đồng nội tệ và tăng cường phát triển thị trường vốn trong nước.
– Nhằm giảm áp lực lên ngành điện hiện đã có nhiều dự án BOT với tổng giá trị lên đến 2 tỷ USD. Theo ông, BOT ngành điện cần lưu ý điểm gì để tránh “vết xe đổ” của BOT lĩnh vực giao thông đang gặp phải?
– Việt Nam đã thu hút thành công BOT điện khí và điện than từ các nhà đầu tư quốc tế. Gần đây Việt Nam đã cập nhật và cải thiện khung đối tác công tư PPP, nhưng vẫn chưa được chấp nhận rộng rãi. Chính phủ và các nhà đầu tư còn nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề phân bổ rủi ro trong các dự án PPP và BOT. Điều đó đã làm chậm quá trình xây dựng dự án. Vì thế, việc có khung PPP được chuẩn hoá sẽ thu hút được nhiều hơn vốn từ các nhà đầu tư nước ngoài.
Anh Minh