Cha làm nghề vận tải, mẹ làm nội trợ, cả hai đã ngạc nhiên khi Finn Erling Kydland (Na Uy) trở thành giáo sư kinh tế.
Nhà kinh tế Finn Erling Kydland trong một buổi chia sẻ kiến thức. Ảnh: Alexander Mahmoud. |
Giáo sư Finn Erling Kydland đoạt giải Nobel Kinh tế năm 2004 đang có mặt tại Quy Nhơn (Bình Định) để tham dự hội thảo Khoa học vì sự phát triển. Hội thảo được tổ chức trong khuôn khổ chương trình Gặp gỡ Việt Nam lần thứ 14 với sự xuất hiện của nhiều nhà khoa học nổi tiếng, trong đó có giáo sư Gerard ‘t Hooft, giải Nobel Vật lý năm 1999.
Kydland sinh ngày 1/12/1943 trong nông trại của ông bà tại Bjerkreim nhưng lớn lên ở Gjesdal, tây nam Na Uy, theo Mediatheque. Ông là anh cả trong gia đình có 6 người con. Cha ông vận chuyển hàng hóa bằng xe tải còn mẹ làm việc tại nhà đến khi những người con trưởng thành.
“Mọi người kể cha học tốt ở trường, nhưng cha mẹ tôi không bao giờ cố áp đặt con cái về sự nghiệp. Thực tế, cả hai đã rất ngạc nhiên khi cuối cùng tôi lại trở thành giáo sư”, Kydland chia sẻ trong cuốn sách Les Prix Nobel.
Kydland học tiểu học ở nông thôn rồi chuyển đến trường trung học tại Bryne năm 15 tuổi. Ông dễ dàng vượt qua kỳ thi đầu vào của trường và phải thuê phòng để tiện đi lại. Trong quá trình học, ông thể hiện khả năng vượt trội về môn toán.
Sau khi tốt nghiệp, Kydland làm giáo viên tại trường học ở Oltedal khoảng hai năm. Trong thời gian này, ông cũng tham gia khóa học từ xa về kế toán và nhận lời làm kế toán cho một người bạn. Công việc giúp ông hiểu hơn về cách vận hành một doanh nghiệp và góp phần dẫn đến quyết định nộp đơn vào Trường Kinh tế Na Uy.
Kydland nhận bằng cử nhân năm 1968 rồi trở thành trợ lý nghiên cứu cho Sten Thore, giáo sư kinh tế tại Trường Kinh tế Na Uy. “Khi được giáo sư đề nghị làm trợ lý nghiên cứu, tôi đã đồng ý mà không cần suy nghĩ nhiều. Đó là một trong những quyết định quan trọng nhất cuộc đời tôi”, ông chia sẻ.
Cũng trong thời gian này, ông kết hôn với Liv Kjellevold. Họ có 4 người con nhưng rồi ly hôn sau thời gian dài chung sống. Sau này, ông tái hôn với Tonya Schooler.
Edward Prescott (trái) và Finn Erling Kydland (phải) thực hiện nhiều nghiên cứu kinh tế nổi bật. Ảnh: Nobel Prize. |
Năm 1969, Kydland đến Đại học Carnegie Mellon theo Thore. Tại đây, ông nhận học vị tiến sĩ với luận án về kinh tế kế hoạch phi tập trung, thực hiện dưới sự hướng dẫn của giáo sư Edward Prescott.
Năm 1977, sau vài năm giảng dạy tại Trường Kinh tế Na Uy, ông trở lại Đại học Carnegie Mellon trong vai trò giáo sư kinh tế, theo Investopedia. Ông chuyển đến giảng dạy tại Đại học California ở Santa Barbara, Mỹ, năm 2004.
Kydland là tác giả của nhiều nghiên cứu kinh tế, trong đó được biết đến nhiều nhất với các công trình hợp tác cùng Prescott. Trong hai nghiên cứu năm 1977 và 1982, Kydland và Prescott đề xuất cách tiếp cận mới để phân tích sự phát triển của kinh tế vĩ mô.
Họ chỉ ra các nhà hoạch định chính sách kinh tế nhiều khi thực hiện chính sách khiến lạm phát tăng dù mục tiêu ban đầu là lạm phát thấp. Đây là một ví dụ của vấn đề thời gian nhất quán. Hai nhà kinh tế cũng phân tích lực đẩy đằng sau các chu kỳ kinh doanh, góp phần làm thay đổi quan điểm về nguyên nhân gây ra biến động trong chu kỳ này.
Năm 2004, ông cùng Edward Prescott nhận giải Nobel Kinh tế cho những đóng góp về kinh tế vĩ mô với nghiên cứu về sự thống nhất thời gian của chính sách kinh tế và lực đẩy phía sau chu kỳ kinh doanh. Phân tích của họ không chỉ làm thay đổi nghiên cứu kinh tế mà còn ảnh hưởng lớn đến việc thực hiện chính sách kinh tế nói chung và chính sách tiền tệ nói riêng.